Thế kỷ 20 Văn_học_Nga

Bài chi tiết: Văn học Liên Xô

Cùng với sự thành lập của chính quyền Bolshevik sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, Mayakovsky bắt tay vào giải thích những tính chất của thực tại mới. Các tác phẩm của ông như Thơ ca ngợi Cách mạng và Hành khúc bên trái (đều ra đời năm 1918) mang tới luồng gió mới cho thi ca. Trong Hành khúc bên trái, Mayakovsky kêu gọi đấu tranh chống lại kẻ thù của Cách mạng Nga. Bài thơ 150,000,000 thảo luận vai trò tiên phong của quần chúng trong cách mạng. Trong bài thơ Vladimir Ilyich Lenin (1924), Mayakovsky hướng tới cuộc đời và sự nghiệp của lãnh tụ Cách mạng Nga. Còn ở bài thơ Tốt lắm, ông coi xã hội theo mô hình chủ nghĩa xã hội là "mùa xuân của nhân loại". Mayakovsky đóng vai trò quan trọng trong sự ra đời của thể loại thơ ca mới, mà ở đó chính trị là nhân tố chính yếu.

Tượng đài nhà văn Maxim Gorky ở Nizhny Novgorod

Vào thập niên 1930, hiện thực xã hội chủ nghĩa trở thành xu hướng chiếm ưu thế tại Nga, với nhân vật chủ chốt là Maxim Gorky. Ông là người đặt nền móng cho thể loại này thông qua cuốn tiểu thuyết Người mẹ và vở kịch Bọn địch thù (cả hai ra đời năm 1906). Bộ ba cuốn sách tự truyện: Thời thơ ấu của tôi (1913-1914), Kiếm sống (1916) và Những trường đại học của tôi (1923), kể lại hành trình từ nghèo khó cho tới thời kỳ phát triển nhận thức chính trị của tác giả. Cuốn tiểu thuyết Sự nghiệp của Artamanov (1925) và vở kịch Egor Bulyshov (1932) mô tả sự tan rã và sụp đổ không thể tránh khỏi của giai cấp thống trị ở nước Nga. Gorky định nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là "chủ nghĩa hiện thực của những người đang tái thiết thế giới" và khẳng định hiện thực xã hội chủ nghĩa nhìn quá khứ "từ trên đỉnh cao của những thành quả trong tương lai". Theo Gorky, trách nhiệm chính của các nhà văn là phải góp sức vào sự nghiệp phát triển con người mới trong xã hội của chủ nghĩa xã hội. Hình tượng anh hùng cách mạng của Gorky là Pavel Vlasov trong tiểu thuyết Người mẹ, đó là người sống quên mình, giàu lòng thương cảm những người lao động nghèo, cũng như kỷ luật và dâng hiến. Các tác phẩm của Gorky đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của văn học Nga và có ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều nơi trên thế giới.

Tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy (1932-1934) của Nikolay Ostrovsky nằm trong số những tác phẩm thành công nhất của văn học Nga, với 10 triệu bản được in bằng nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Ở Trung Quốc, các phiên bản của cuốn sách này bán được hơn 10 triệu bản. Tại Nga hơn 35 triệu bản sách được phát hành.Thép đã tôi thế đấy là cuốn tiểu thuyết tự truyện về chính cuộc đời của Nikolay Ostrovsky: tuổi thơ vất vả, trở thành đoàn viên Komsomol vào tháng 7 năm 1919 và tình nguyện tham gia Hồng Quân. Nhân vật chính trong tiểu thuyết, Pavel Korchagin, tượng trưng cho "anh hùng trẻ tuổi" trong văn học Nga: anh cống hiện cả đời cho sự nghiệp chính trị, nhờ đó anh vượt qua vô vàn thương đau. Cuốn tiểu thuyết là nguồn truyền cảm hứng tới thế hệ trẻ khắp thế giới và đóng vai trò thúc đẩy tinh thần trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của nước Nga.

Alexander Fadeyev (1901–1956) dã đạt được thành công rực rỡ tại Nga, với 10 triệu bản sách được phát hành tại Nga và nhiều nơi trên thế giới. Nhiều tác phẩm của Alexander Fadeyev được chuyển thể thành phim và dịch sang nhiều ngôn ngữ tại Nga và khắp thế giới. Fadeyev là thư ký của Hội nhà văn Liên Xô và là tổng thư ký hội từ năm 1946 đến 1954. Nhà nước Liên bang Xô viết trao tặng Fadeyev hai huân chương Lênin và nhiều huân chương cao quý khác. Cuốn tiểu thuyết "Chiến bại" (1927) kể về cuộc đấu tranh du kích tại Viễn Đông Nga trong thời kỳ Cách mạng NgaNội chiến 1917-1922. Chủ đề được thể hiện trong tiểu thuyết này được Fadeyev miêu tả như một "cuộc cách mạng" chuyển biến quần chúng nhân dân. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Levinson, một nhà cách mạng Bolshevik có nhận thức chính trị sâu sắc. Cuốn tiểu thuyết "Đội cận vệ thanh niên" (1946), giành được Giải thưởng Liên bang của Liên Xô vào năm 1946, kể về một nhóm đoàn viên Komsomol hoạt động ngầm ở Krasnodon, Ukraine và cuộc đấu tranh họ thực hiện nhằm chống lại sự chiếm đóng của phát xít.

Những năm đầu của chế độ Xô viết, từ năm 1917 trở về sau, nở rộ các nhóm văn học tiên phong. Một trong những nhóm quan trọng nhất là phong trào Oberiu (1928-thập niên 1930), với sự góp mặt của những tên tuổi nổi tiếng nhất như Daniil Kharms (1905–1942), Konstantin Vaginov (1899–1934), Alexander Vvedensky (1904–1941) và Nikolay Zabolotsky (1903–1958). Nhiều tác giả danh tiếng khác thực hiện các thí nghiệm với ngôn ngữ, gồm có tiểu thuyết gia Yuri Olesha (1899–1960) và Andrei Platonov (1899–1951) và hai nhà văn chuyên viết truyện ngắn là Isaak Babel (1894–1940) và Mikhail Zoshchenko (1894–1958). Nhóm các nhà phê bình văn học OPOJAZ , còn được gọi là chủ nghĩa hình thức Nga, ra đời năm 1916, có quan hệ gần gũi với chủ nghĩa vị lai Nga. Viktor Shklovsky (1893–1984) và Yury Tynyanov (1893–1943) là hai thành viên tiêu biểu của nhóm đã sáng tác những tác phẩm văn học có sức ảnh hưởng lớn. Nhiều tác phẩm của Viktor Shklovsky thách thức thể loại văn học thông qua tiểu thuyết kết hợp giữa tự sự, tự truyện và bình luận mỹ học cũng như bình luận xã hội. Trong khi đó, Yuri Tynyanov sử dụng kiến thức về lịch sử văn học nga để viết nên những tiểu thuyết lịch sử chủ yếu về thời đại Pushkin.

Nhà văn Pasternak (thứ hai từ trái sang) với bạn bè, gồm có Lilya Brik, nhà làm phim Eisenstein (thứ ba từ trái sang) và nhà thơ Mayakovsky (đứng giữa). Ở bên trái là nhà văn Nhật bản Tomizi Tamiji Naito (1885-1965). Mát-xcơ-va, ngày 11/05/1924

Nhiều nhà văn, chẳng hạn như thành viên của nhóm Anh em Serapion (1921– ) - những người khăng khăng khẳng định quyền của tác giả khi được tự do viết về ý thức hệ chính trị, bị nhà cầm quyền buộc phải từ bỏ quan điểm và chấp nhận các nguyên tắc hiện thực xã hội chủ nghĩa. Các nhà văn của thập niên 1930, như Mikhail Bulgakov (1891–1940), tác giả của tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita (viết năm 1928–1940, xuất bản năm 1966), và nhà văn giành giải Nobel, Boris Pasternak (1890–1960) với tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago (viết năm 1945–1955, xuất bản năm 1957) tiếp tục đi theo truyền thống văn học Nga, không hy vọng được phép xuất bản. Các tác phẩm chính của họ bị cấm xuất bản mãi cho tới thời Khrushchev, thậm chí chính quyền Liên Xô còn buộc Pasternak không được nhận giải Nobel năm 1958.

Trong khi đó, những nhà văn tị nạn ở nước ngoài, như nhà thơ Vladislav Khodasevich (1886–1939), Georgy Ivanov (1894–1958) và Vyacheslav Ivanov (1866–1949); tiểu thuyết gia Mark Aldanov (1880s–1957), Gaito Gazdanov (1903–1971) và Vladimir Nabokov (1899–1977) và nhà văn chuyên thể loại truyện ngắn từng đoạt giải Nobel Ivan Bunin (1870–1953), tiếp tục sáng tác tại nơi xứ người.

Thời kỳ tan băng Khrushchev (khoảng năm 1954 – khoảng năm 1964) thổi luồng gió tươi mới vào văn học. Thơ ca trở thành hiện tượng văn hóa đại chúng: Bella Akhmadulina (1937–2010), Robert Rozhdestvensky (1932–1994), Andrei Voznesensky (1933–2010), và Yevgeny Yevtushenko (1933–2017), đọc thơ của họ trên sân vận động, thu hút rất nhiều khán thính giả đến tham dự.

Một số tác giả cả gan chống lại ý thức hệ Xô viết, như nhà văn chuyên viết truyện ngắn Varlam Shalamov (1907–1982), tiểu thuyết gia đoạt giải Nobel Aleksandr Solzhenitsyn (1918–2008) - người dám viết về cuộc sống trong trại gulag, hay Vasily Grossman (1905–1964) miêu tả các sự kiện trong thế chiến II trái ngược với lịch sử chính thống của Liên Xô. Những nhà văn này, còn gọi là "những người bất đồng chính kiến", không được phép xuất bản các tác phẩm chính mãi cho tới thập niên 1960.

Song thời kỳ tan băng đó không kéo dài lâu. Trong những năm 1970, một số tên tuổi tiêu biểu nhất không chỉ bị cấm xuất bản mà còn bị khởi tố vì quan điểm chống Xô viết, hoặc vì tội "ăn bám" (parasitism). Solzhenitsyn bị trục xuất khỏi tổ quốc. Nhiều người khác, bao gồm cả nhà thơ đoạt giải Nobel Joseph Brodsky (1940–1996), tiểu thuyết gia Vasily Aksyonov (1932–2009), Eduard Southern (1943–2020), Sasha Sokolov (1943–), Vladimir Voinovich (1932–2018); và nhà văn chuyên viết truyện ngắn Sergei Dovlatov (1941–1990), phải di cư sang phương Tây, trong khi đó Oleg Accessories (1943–1992) và Venedikt Yerofeyev (1938–1990) "chọn con đường" rượu chè say xỉn. Sách của họ không được phép xuất bản chính thức mãi cho tới thời kỳ cải tổ (perestroika) trong thập niên 1980, cho độc giả hâm mộ họ tiếp tục in ấn sách thủ công theo phương pháp "samizdat" (tự xuất bản).

Thể loại chủ yếu

Văn học thiếu nhi của Liên Xô chiếm một phần quan trọng do vai trò giáo dục mà thể loại này mang lại. Chiếm số lượng lớn trong kho tàng sách thiếu nhi Liên Xô thời kỳ đầu là tác phẩm thơ: Korney Chukovsky (1882–1969), Samuil Marshak (1887–1964) và  Agnia Barto (1906–1981) nằm trong số những tác giả được ưa chuộng nhất. Các nhà thơ "dành cho người lớn" như Mayakovsky hay Sergey Mikhalkov (1913–2009) cũng đóng góp cho thể loại này. Một số tác phẩm văn xuôi Liên Xô thời kỳ đầu là các truyện viết phỏng theo cổ tích nước ngoài chưa được người Nga biết tới ở thời điểm bấy giờ. Alexey N. Tolstoy (1882–1945) viết Buratino, phiên bản hài hước và ngắn gọn hơn của truyện Pinocchio (tác giả: Carlo Collodi). Alexander Volkov (1891–1977) giới thiệu văn học kỳ ảo cho trẻ em Liên Xô thông qua bản dịch thoáng của tác phẩm Phù thủy xứ Oz của L. Frank Baum, xuất bản dưới cái tên Phù thủy của Thành phố Ngọc lục bảo năm 1939. Về sau, Volkov tiếp tục sáng tác thêm 5 tập truyện, hoàn toàn độc lập với Baum. Các tác giả tiêu biểu khác còn có Nikolay Nosov (1908–1976), Lazar Lagin (1903–1979), Vitaly Bianki (1894–1959) và Vladimir Suteev (1903–1993).

Trong khi truyện cổ tích thường không liên quan gì đến xung đột ý thức hệ, thì văn xuôi hiện thực dành cho trẻ em dưới thời Stalin mang đậm dấu ấn ý thức hệ và thường nhằm mục tiêu giáo dục lòng yêu nước và tinh thần cộng sản cho trẻ em. Nhà văn tiêu biểu của thể loại này là Arkady Gaydar (1904–1941), một chỉ huy (đại tá) trong lực lượng Hồng quân trong thời Nội chiến Nga. Các truyện và vở kịch của ông viết về Timur, một nhóm thiếu niên tình nguyện giúp đỡ người già và chống lại du côn. Thể loại truyện anh hùng tiên phong thể hiện nhiều điểm tương đồng với thể loại thánh sử Thiên Chúa giáo. Tuy vậy, dưới thời Khrushchov (Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang Xô viết từ năm 1953 đến 1964) và Brezhnev (nắm quyền trong giai đoạn 1966-1982), áp lực đã giảm bớt. Sách dành cho thiếu nhi giai đoạn giữa và cuối Liên Xô viết bởi Eduard Uspensky, Yuri Entin, Viktor Dragunsky không còn dấu hiệu của sự tuyên truyền. Trong những năm 1970, nhiều sách thiếu nhi, cũng như truyện do nhà văn thiếu nhi nước ngoài viết, đã được chuyển thể thành phim hoạt hình.

Thể loại khoa học viễn tưởng nở rộ, nhờ được cuộc cách mạng khoa học, công nghiệp hóa và công cuộc tiên phong khám phá vũ trụ truyền cảm hứng. Nhưng chỉ số ít vượt qua được vòng kiểm duyệt. Các tác giả khoa văn viễn tưởng thời kỳ đầu, như Alexander Belyayev, Grigory Adamov, Vladimir Obruchev, Aleksey Nikolayevich Tolstoy luẩn quẩn với khoa học "cứng", và thương coi H. G. Wells hay Jules Verne là hình mẫu để đi theo. Hai người tiêu biểu không đi theo xu hướng này là Yevgeny Zamyatin, tác giả của tiểu thuyết "phản địa đàng" (dystopian) We, và Mikhail Bulgakov với tác phẩm Quả tim chó, Quả trứng định mệnh và Ivan Vasilyevich, dù thực ra Bulgakov quan tâm việc châm biếm xã hội hơn là thành quả của khoa học. Cả hai tác giả này đều gặp vấn đề trong việc xuất bản sách ở Liên bang Xô viết.

Kể từ thời kỳ tan băng những năm 1950, thể loại khoa học viễn tưởng của Liên Xô bắt đầu hình thành phong cách riêng. Triết học, luân lý học, ý tưởng về utopia và dystopia trở thành cốt lõi của thể loại này, khoa học viễn tưởng xã hội là tiểu thể loại phổ biến nhất. Sách của anh em Arkady và Boris Strugatsky, hoặc Kir Bulychev, cùng với nhiều người khác, gợi người đọc nhớ tới các vấn đề xã hội và thường chứa yếu tố châm biếm xã hội Xô viết đương thời. Ivan Yefremov, ngược lại, tạo dựng nên tên tuổi nhờ quan điểm "không tưởng" (utopia) về tương lai cũng như về Hy Lạp cổ đại trong các tiểu thuyết lịch sử mà ông viết. Strugatskies cũng nổi tiếng nhờ bộ ba tác phẩm Thứ Hai bắt đầu vào Thứ Bảy - những tác phẩm thuộc tiểu thể loại khoa học kỳ ảo đầu tiên của Liên Xô. Một số nhà văn khoa học viễn tưởng tiêu biểu khác là Vladimir Savchenko, Georgy Gurevich, Alexander Kazantsev, Georgy Martynov, Yeremey Parnov. Nhạc kịch vũ trụ (space opera) ít phát triển hơn, bởi vì cả bộ phận kiểm duyệt lẫn các nhà văn đều không ưa chuộng tiểu thể loại này cho lắm. Tuy nhiên, vẫn có một số thành công trong việc đưa nhạc kịch vũ trụ của phương Tây vào Liên Xô. Đầu tiên là vở "Griada" của Alexander Kolpakov, sau đó là vở "Con người giống như Chúa" của Sergey Snegov.

Một nhánh kết hợp giữa khoa học viễn tưởng và sách thiếu nhi xuất hiện ở giữa thời Xô viết, đó là khoa học viễn tưởng thiếu nhi. Thể loại này vừa nhằm mục tiêu giáo dục, vừa giúp trẻ em giải trí. Ngôi sao hàng đầu của thể loại này là Bulychov. Cùng với các tác phẩm dành cho người lớn, ông sáng tác loạt truyện phiêu lưu vũ trụ dành cho thiếu nhi về cô bé đến từ tương lai Alisa Selezneva. Các giá khác có thể kể đến Nikolay Nosov (với các tác phẩm về người lùn Neznayka), Evgeny Veltistov (viết về cậu bé rô-bốt Electronic), Vladislav Krapivin và Vitaly Gubarev.

Truyện bí ẩn là một thể loại phổ biến khác. Các truyện trinh thám của hai anh em Arkady và Georgy Vayner, cùng với tiểu thuyết gián điệp của Yulian Semyonov nằm trong danh sách bán chạy nhất. Nhiều tác phẩm của họ được chuyển thể thành phim điện ảnh và phim truyền hình trong thập niên 1970, 1980.

Văn xuôi đồng quê là một thể loại miêu tả cuộc sống nông thôn khiến người đọc lưu luyến. Proshchaniye s Matyoroy (Tạm biệt Matyora), tiểu thuyết Valentin Rasputin viết năm 1976, khắc họa hình ảnh làng quê đối mặt với sự tàn phá của nhà máy thủy điện.

Phần lớn văn học lấy đề tài lịch sử ở thời kỳ đầu Liên Xô là các hồi ức, được văn chương hóa hoặc không. Valentin Katayev và Lev Kassil sáng tác sách bán-tự truyện về cuộc sống của trẻ em dưới thời Sa hoàng Nga. Vladimir Gilyarovsky viết tác phẩm Mát-xcơ-va và người Mát-xcơ-va, nói về cuộc sống thời kỳ tiền cách mạng ở Mát-xcơ-va. Văn học lịch sử Xô viết thời kỳ sau đa số là tiểu thuyết và truyện ngắn về Thế chiến II với các tác giả như Boris Vasilyev, Viktor Astafyev, Boris Polevoy, Vasil Bykaŭ. Họ, cùng với nhiều tác giả khác, thường dựa trên trải nghiệm thời chiến của chính họ để viết nên tác phẩm. Vasily Yan và Konstantin Badygin nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết về nước Nga thời Trung cổ. Valentin Pikul, chịu ảnh hưởng phong cách viết của Alexander Dumas, viết về nhiều thời kỳ và quốc gia khác nhau. Trong thập niên 1970, xuất hiện thể loại tương đối độc lập gọi là Văn xuôi làng quê, đại diện tiêu biểu nhất là Viktor Astafyev và Valentin Rasputin.

Bất kỳ thể loại văn học hư cấu nào liên quan đến sự huyền bí, từ kinh dị, kỳ ảo dành cho người lớn cho đến hiện thực huyền ảo, đều không được chào đón ở Liên bang Xô viết. Mãi cho tới thập niên 1980, rất ít sách ở những thể loại này được viết, và số sách được xuất bản còn ít hơn, dù những sách loại này được viết trước đây không hề bị cấm, chẳng hạn tác phẩm của Gogol. Nằm trong số ngoại lệ hiếm hoi có tác phẩm Nghệ nhân và Margarita của Bulgakov (không được xuất bản khi tác giả còn sống) và Thứ Hai bắt đầu vào Thứ Bảy của Strugatskies. Các tác phẩm này đưa các sinh vật ma thuật và huyền bí vào thực tại Liên xô đương thời để phê phán nhà nước Liên Xô. Một ngoại lệ khác là nhà văn Xô viết thời đầu Alexander Grin, cha đẻ các truyện lãng mạn, cả kỳ ảo lẫn hiện thực.